Wednesday, December 3, 2014

Xét nghiệm Kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA)


NHẮC LẠI SINH LÝ
Kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) là một nhóm các glycoprotein không đổng nhất có TLPT 200.000 dalton, di chuyển cùng với các bêta globulin khi làm điện di máu. Ở người lớn, CEA bình thường được thấy với một hàm lượng vết trong máu. Tuy vậy, CEA có xu hướng tăng cao khi bị các bệnh lý ác tính.
Kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) được sản xuất bởi:
1.        Mô biểu mô phôi và thai: Nồng độ chất này tăng lên trong thời gian có thai với đỉnh cao vào tuần thai thứ 22, rổi giảm dần để đạt tới giá trị bình thường vào tuần thai thứ 40.
2.        Các TB ruột (biểu tuyến nhất là ở niêm mạc đường tiêu hóa): Với một lượng nhỏ, CEA được các TB Kupffer của gan thanh thải.
3.   Các TB ung thư: Các bệnh lý khối u thường gây tăng nồng độ CEA là:
Ung thư đại tràng - trực tràng (50% có giá trị CEA > 10).
Ung thư vú (30% có giá trị CEA > 10).
Ung thư phổi (29% có giá trị CEA >10).
Đối với các khối u kể trên, dường như có mối tương quan giữa:
1.  Nồng độ CEA và mức độ lan rộng của bệnh lý khối u nguyên nhân:
- 10% các ung thư đại tràng thuộc phân độ Dukes A có nồng độ CEA tăng, so với 90% đối với các ung thư thuộc độ Dukes D.
- Phẫu thuật cắt bỏ khối u tiên phát giúp làm giảm hoặc thậm chí đưa nồng độ CEA trở lại giá trị bình thường.
2. Nồng độ CEA và tiên lượng: ở cùng một giai đoạn của bệnh, các khối u có nồng độ CEA bình thường dường như có tiên lượng tốt hơn so với các khối u có nồng độ CEA tăng.
CEA là một chất chỉ dẫn (marker) kém đặc hiệu do có nhiều bệnh lý không phải là bệnh lý khối u cũng có thể gây tăng CEA, vì vậy không nên sử dụng đơn độc XN này để chẩn đoán ung thư. Tuy vậy, khi giá trị của CEA càng tăng cao, nguy cơ phát hiện được một bệnh lý khối u càng hiển nhiên. Như vậy, khi giá trị CEA >15 ng/mL, khả năng bị bệnh lành tính rất thấp và khi nồng độ CEA > 25 ng/mL khả năng bệnh lành tính gần như được loại bỏ.

MỤC ĐÍCH VÀ CHỈ ĐỊNH XÉT NGHIỆM
XN giúp cho chẩn đoán và tiên lượng một số loại ung thư, nhất là ung thư đại tràng.

CÁCH LẤY BỆNH PHẨM
XN được thực hiện trên huyết thanh (kĩ thuật miễn dịch phóng xạ [RIA]). Không nhất thiết yêu cầu bệnh nhân phải nhin ăn trước khi lấy máu làm xét nghiệm. .

GÍA TRỊ BÌNH THƯỜNG
1.    Người không hút thuốc < 3 ng/ml hay <3 µg/L
2.    Người hút thuốc: < 5 ng/mL hay < 5 <3 µg/L

TĂNG NỒNG ĐỘ CEA
Các nguyên nhân chính được gặp là:
1.       Hút thuốc lá.
2.       Viêm phổi do vi khuẩn.
3.        Viêm phế quản mạn tính, khí thũng phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính(COPD).
4.       Có thai.
5.       Viêm tụy cấp.
6.       Bệnh Crohn.
7.       Viêm loét đại tràng (18% các BN có tăng nồng độ CEA).
8.       Viêm túi thừa (diverticulitis).
9.       Bệnh loét dạ dày - tá tràng.
10.  Xơ gan.
11. Viêm gan mạn.
12. Viêm khớp dạng thấp.
13. Viêm túi mật.
14. Các bệnh viêm của thận gây suy thận cấp.
15. Các bệnh lý khối u (ung thư) (theo trình tự tần xuất gặp giảm dần):
- Đại tràng, trực tràng.
- Vú.
- Phổi
- Tụy.
- Dạ dày.
- Bệnh lơxêmi (leukemia).
       - Các bệnh lý khối u khác (Vd: buồng trứng, tử cung, tuyến giáp) .
                  16           Suy giáp.
        17.   Sau xạ trị.

CÁC YẾU TỐ GÓP PHẦN LÀM THAY ĐỔI KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM
- Hút thuốc có thể làm tăng nồng độ CEA.
- Các thuốc có thể làm tăng nồng độ CEA là: Thuốc điều trị ung thư, thuốc gây độc cho gan.

LỢI ÍCH CỦA XÉT NGHIỆM ĐỊNH LƯỢNG CEA
1.     Do có tính đặc hiệu thấp, định lượng CEA với mục đích phát hiện các ung thư một cách hệ thống ít có giá trị. Tuy vậy, trong trường hợp lâm sàng nghi vấn BN có bệnh lý khối u (ung thư), XN thấy tăng nồng độ kháng nguyên ung thư biểu mô phôi là một dữ liệu bổ sung thêm cho việc phải tiếp tục làm các thăm dò tìm khối u nguyên phát.
2.     XN này đã được cho thấy là có hiệu quả trong phát hiện sớm ung thư đại trực tràng (nồng độ CEA tăng cao một vài tháng trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng). Các khối u nhỏ ở giai đoạn sớm sẽ có nồng độ CEA bình thường hay thấp, trái lại khi bệnh ở giai đoạn nặng hay có di căn thường thấy có tăng nồng độ CEA.
3.     Trong trường hợp khối u đã được xác định, định lượng CEA cho phép theo đõi tiến triển của bệnh lý khối u và đáp ứng vởi điều tri. Tất cả các gia tăng nồng độ CEA sau điều trị phẫu thuật cắt bỏ u cần phải tiến hành tìm kiếm tình trạng u tái phát tại chỗ hay đã di căn ở xa.
4.                  Trước tất cả các tăng giá trị của CEA đòi hỏi phải làm. thêm XN bổ sung, nhất là khi giá trị này >15 ng/mL.

CÁC HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN Y HỌC BẰNG CHỨNG
Định lượng nồng độ CEA được khuyến cáo chỉ định trước và 3 tháng/lần trong vòng 2 năm đầu sau phẫu thuật cắt bỏ ung thư đại trực tràng:
-       Tình trạng giảm trở về giá trị bình thường sau phẫu thuật ở một bệnh nhân có tăng nồng độ CEA trước mổ mang ý nghĩa là khối u đã được cắt bỏ hoàn toàn, trái lại nồng độ CEA vẫn tiếp tục tăng cao sau phẫu thuật chỉ dẫn vẫn còn ung thư tồn dư.
-       Tăng nồng độ CEA trước mổ là một yếu tố dự đoán độc lập cho một tiên lượng xấu đối với BN.

CÁC CẢNH BÁO LÂM SÀNG
Khi ung thư di căn tới các cơ quan khác trong cơ thể, nồng độ CEA tăng lên và có thể thấy tăng nồng độ CEA cả trong các dịch khác của cơ thể như trong dịch não tủy.


No comments:

Post a Comment