Virus quai bị là thành viên chính của nhóm Paramyxovinus và là tác nhân gây nhiễm trùng cấp tính không sưng mủ với đặc trưng là sưng to các tuyến nước bọt và đôi khi tổn thường tinh hoàn, màng não, tuỵ và các cơ quan khác.
1. Tính chất sinh vật
1.1. Hình thể và cấu trúc
Virus có hình cầu và đường kính trung bình khoảng 120-200nm. Trong cùng là nucleo capsid hình xoắn ốc không kín do các nucleo protein và một sợi ARN đơn liên tục tạo thành. ở ngoài cùng là vỏ envelope có cấu trúc là lớp lipid kép với mặt trong của lớp lipid này được bao phủ bởi các protein khuôn (matrix protein ) và bề mặt ngoài cùng của lớp lipid kép có chứa glyco-protein của hemagglutinin -neuraminidase (HN) và cấu trúc hemolysin (F- glyco protein ).
1.2. Sức đề kháng
Virus quai bị là loại không bền vững, chúng dễ dàng bị tiêu diệt bởi các nhân lý hoá học như : ở 560C trong 20 phút, tia cực tím và các dung môi hoà tan lipid (ether, formol…).
1.3. Nuôi cấy
Virus quai bị có thể được nuôi cấy trên tế bào thai gà và tế bào thường trực vero… Quá trình cấy truyền qua bào thai gà thì virus giảm khả năng gây bệnh, do đó bằng phương pháp này người ta đã ứng dụng sản xuất vaccin quai bị. Đặc điểm của quai bị khi nuôi cấy trong tế bào là thường tạo nên tế bào khổng lồ nhiều nhân.
1.4. Sự nhân lên
Quá trình tổng hợp ARN xảy ra trong nhân của tế bào. Protein cấu trúc và các thành phần khác của virus được tổng hợp tại bào tương. Sau đó quá trình lắp ráp các hạt virus được thực hiện ở bào tương và giải phóng theo phương thức nẩy chồi có lấy một phần màng tế bào chủ thực hiện sắp xếp tạo hạt virus hoàn chỉnh.
1.5. Kháng nguyên
- Kháng nguyên "S": Là thành phần protein của nucleocapid, đây là kháng nguyên kết hợp bổ thể, hoà tan.
- Kháng nguyên "V": Xuất phát từ Hemagglutinin và Neuraminidase bề mặt, là kháng nguyên ngưng kết hồng cầu. Kháng nguyên này thường không biến đổi và có thể bị ức chế bởi huyết thanh đặc biệt kháng quai bị.
2. Dịnh tễ học và khả năng gây bệnh
2.1. Dịch tễ học
Người là túc chủ tự nhiên độc nhất của virus quai bị. Bệnh có ở trên toàn thế giới và dịch có thể xảy ra tại các địa phương hoặc cộng đồng trong thành phố. Bệnh thường xuất hiện trong mùa xuân, đặc biệt là tháng 4 hoặc tháng 5 và lây truyền qua đường nước bọt. Quai bị hiếm gặp ở trẻ em dưới 2 tuổi và sau đó tần suất tăng dần, đạt đỉnh cao ở 10 - 19 tuổi, nam thường nhiễm hơn nữ. Khoảng 30-40% trường hợp nhiễm quai bị mà không có triệu chứng và đây là nguồn lây khó tránh nhất.
2.2. Khả năng gây bệnh
Virus xâm nhập qua đường hô hấp, trong thời kỳ ủ bệnh 12-25 ngày virus có thể nhân lên trong đường hô hấp trên và các hạch ở cổ, từ đó virus được phân tán theo dòng máu đi đến các cơ quan khác, kể cả màng não, tinh hoàn, tụy, buồng trứng, gan thận…
Xét về phương diện lâm sàng thì ta có thể thấy các biểu hiện của bệnh quai bị như sau:
- Viêm tuyến nước bọt: Bệnh nhân thấy đau vùng mang tai, khó há miệng. Sốt cao, kém ăn và kèm theo nhức đầu. Sưng tuyến nước bọt thường một bên, sau 1-2 ngày thì sưng nốt phía bên kia. Tuỳ theo mức độ sưng mà có thể thấy biến đổi khuôn mặt.
- Viêm tinh hoàn: Thường gặp ở thanh thiếu niên, xuất hiện sau sưng tuyến nước bọt 7 -10 ngày. Bệnh nhân thấy sốt cao và rết run và thấy đau ở tinh hoàn, đau tăng khi vận động. Khám thì thấy da bìu đỏ, sờ tinh hoàn thấy đau và to hơn bình thường.
- Viêm buồng trứng: Chẩn đoán rất khó và dễ nhầm với viêm ruột thừa. Bệnh nhân thường thấy sốt và đau 1 bên hoặc 2 bên hố chậu. Ngoài ra, virus quai bị còn gây nhiễm tuỵ cấp, viêm màng não… nhưng các thể này ít gặp hơn.
3. Chẩn đoán vi sinh
3.1. Phân lập và xác định virus
Bệnh phẩm lấy từ nước bọt, máu, nước tiểu hoặc dịch não tuỷ. Sau đó xử lý tạp khuẩn rồi phân lập trong bào thai gà hoặc các tế bào nuôi (tế bào sơ non bào thai gà hoặc tế bào thường trực vero…). Có thể phát hiện các tế bào nuôi cấy dương tính trong 2-3 ngày hoặc lâu nhất là 6 ngày. Ngoài ra, có thể dùng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang để phát hiện nhanh chóng kháng nguyên của virus trong bệnh phẩm một cách trực tiếp.
3.2. Chẩn đoán gián tiếp
Có thể phát hiện kháng thể chống quai bị trong huyết thanh bằng nhiều cách như: kết hợp bổ thể, ức chế ngưng kết hồng cầu… Nhưng tốt nhất vẫn là ELISA tìm IgM và IgG đặc hiệu kháng quai bị.
4. Phòng bệnh và điều trị
4.1. Phòng bệnh
− Phòng bệnh không đặc hiệu với tránh tiếp xúc và cách ly bệnh nhân là rất khó khăn. Do vậy trong vụ dịch thường phòng bệnh thụ động bằng cách tiêm globulin kháng quai bị cho trẻ em, tuy nhiên tác dụng phòng bệnh này chỉ tồn tại ngắn.
− Phòng bệnh đặc hiệu bằng cách dùng vacxin sống rất có hiệu quả. Các vaccin này có tác dụng bảo vệ tối thiểu là 8 năm và thường tiêm chủng cho trẻ sau 1 tuổi, khi mà kháng thể do mẹ truyền đã hết hiệu lực.
Phản ứng tại chỗ và toàn thân nhẹ sau khi tiêm chủng 6 - 8 ngày. Không nên tiêm vacxin sởi cho trẻ ít tháng tuổi quá vì dưới 6 tháng trẻ vẫn còn kháng thể sởi của mẹ truyền cho. Tốt nhất là tiêm cho trẻ 9 - 11 tháng tuổi.
Hiện nay ở nước ta đang dùng loại vacxin sởi sống giảm độc lực trong chương trình tiêm chủng mở rộng.
4.2. Điều trị
Không có thuốc đặc hiệu chống virus quai bị. Do vậy, khi mắc quai bị thường quan tâm đến chăm sóc điều dưỡng và điều trị phòng ngừa các biến chứng do virus gây ra bằng corticoides.
thực hành xét nghiệm Vius Quai bị tại cao đẳng kỹ thuật xét nghiệm y học
ReplyDeletehttps://duocsaigon.com.vn/cao-dang-ky-thuat-xet-nghiem-y-hoc/ có trang thiết bị rất hiện đại, hỗ trợ sinh viên rất tốt trong công tác xét nghiệm mà tôi từng biết