Hình ảnh chỉ mang tính minh họa. Nguồn Internet |
Máu
và các chế phẩm, cũng như các loại thuốc khác và các phương pháp điều trị khác,
đều có các tác dụng có lợi và tác dụng phụ không có lợi cho người bệnh. Thực
hiện tốt an toàn truyền máu bao gồm nắm
vững những lợi ích mà truyền máu mang lại đồng thời hiểu rõ những nguy cơ do
truyền máu có thể gây ra.
An
toàn truyền máu là một quy trình khép kín gồm nhiều giai đoạn trong đó truyền
máu lâm sàng đứng ở vị trí cuối cùng nhưng rất quan trọng. Ngân hàng máu phải
đảm bảo cung cấp cho các bệnh viện các sản phẩm máu an toàn, có chất lượng. Các
bác sĩ lâm sàng tại các bệnh viện có trách nhiệm chỉ định điều trị đúng và hợp
lý máu & các chế phẩm, truyền máu và các chế phẩm đúng nguyên tắc và đúng
quy trình, xử trí kịp thời và chính xác các tai biến truyền máu.
A. Sớm :
1.
Mang tính miễn dịch :
-
Phản ứng truyền máu gây tan máu cấp tính
-
Phản ứng sốt do truyền máu không gây tan máu
-
Phản ứng kiểu dị ứng
-
Phản ứng kiểu phản vệ
-
Tổn thương phổi cấp do truyền máu ( Transfusion Related Acute
Lung Injury – TRALI)
2. Không mang tính miễn dịch:
- Nhiễm khuẩn
-
Quá tải tuần hoàn
- Tan máu do các nguyên nhân không phải miễn
dịch
- Truyền máu khối lượng lớn
- Rối loạn chuyển hoá
B. Muộn
1. Mang tính
miễn dịch
- Phản ứng tan máu muộn
- Phản ứng miễn dịch đồng loại
- Bệnh ghép chống chủ do truyền máu
2. Không mang tính miễn dịch:
- Tăng sắt
- Các bệnh nhiễm trùng do truyền máu
A. Các phản ứng truyền máu
mang tính chất cấp tính hay sớm
1.
Phản ứng truyền máu gây tan máu cấp tính
·
Nguyên nhân : bất đồng nhóm máu hệ ABO
·
Triệu chứng : Thường xuất hiện rất sớm ngay sau khi truyền
được khoảng vài ml máu. Bệnh nhân thường bắt đầu với các dấu hiệu đau hoặc cảm
giác nóng ở vùng đặt kim truyền máu, kích thích, vật vã, đỏ mặt, ngực, đau thắt
lưng, bụng hoặc đau ngực…,buồn nôn và nôn. Các triệu chứng thực thể đi từ nhẹ
đến nặng : sốt, rét run, khó thở, tụt huyết áp, mạch nhanh, đái đỏ do đái huyết
sắc tố, thiểu niệu, vô niệu, xuất huyết và sốc.
·
Xử trí:
- Ngừng truyền máu ngay
lập tức và vẫn duy trì đường truyền bẵng các dung dịch đẳng trương.
- Báo ngay cho bác sĩ trực
và đơn vị phát máu của bệnh viện.
- Kiểm tra ngay lập tức
lại tên, tuổi, nhóm máu bệnh nhân cũng như nhóm máu, hạn sử dụng … của túi máu.
- Bàn giao túi máu cũng
như dây truyền máu cho đơn vị phát máu
- Lấy máu bệnh nhân để
kiểm tra công thức máu, coombs trực tiếp, urê, creatinin, điện giải đồ, đông
máu cơ bản( PT, APTT, sợi huyết), cấy máu. Lấy nước tiểu để xét nghiệm sinh hoá
- Đảm bảo thông thoáng
đường thở và cho BN thở oxy.
- Tiêm TM hydrocortisol và
các thuốc kháng histamin. Khi có các dấu hiệu của sốc, cần sử dụng các thuốc
vận mạch như adrenalin, noradrenalin, dopamin…cũng như các dung dịch thay thế
để duy trì mạch và huyết áp.
- Theo dõi chặt chẽ mạch,
HA, nhịp thở, nhiệt độ, CVP, nước tiểu. Nếu lượng nước tiểu <100ml/h và CVP
ổn định ở mức 5 – 10cm nước, cần cho thêm các thuốc lợi tiểu.
- Theo dõi chặt chẽ các
xét nghiệm đông máu, sinh hoá máu và công thức máu để có các biện pháp xử trí
kịp thời phù hợp với các thay đổi của các xét nghiệm này.
2. Phản ứng sốt rét do
truyền máu không gây tan máu
Phản ứng sốt có kèm theo hay không rét run thường do
kháng thể của bệnh nhân chống bạch cầu người cho có trong các chế phẩm máu. Tỷ
lệ xảy ra phản ứng là 1-2% các lần truyền máu và thường xảy ra ở những bệnh
nhân được truyền máu nhiều lần hoặc phụ nữ có thai. Bệnh nhân có biểu hiện sốt cao, rét run hoặc
không vào khoảng 30 – 60 phút sau khi bắt đầu truyền máu, cũng có thể sau khi
ngừng truyền máu một đến vài giờ. Xử trí đơn giản : tạm ngừng truyền máu hoặc
truyền với tốc độ chậm, cho bệnh nhân sử dụng các thuốc hạ sốt như paracetamol,
acetaminophene…Hydrôcortisol được chỉ định khi các thuốc hạ sốt non steroid
không có hiệu quả. Cần theo dõi bệnh nhân chặt chẽ vì có thể có trường hợp tiến
triển nặng lên.
Đối với các bệnh nhân được truyền máu nhiều lần mà có
phản ứng sốt, có thể dự phòng bằng cách cho bệnh nhân sử dụng các thuốc chống
viêm non steroid, hydrôcortisol… trước khi truyền máu. Một phương pháp tích cực
nữa để phòng các phản ứng trên là truyền các chế phẩm máu nghèo bạch cầu hoặc
sử dụng các dụng cụ lọc bạch cầu khi truyền máu cho bệnh nhân.
3. Các phản ứng dị ứng
Các phản ứng dị ứng thường do cơ thể phản ứng với các prôtêin
có trong
huyết tương của chế phẩm
được truyền. Biểu hiện lâm sàng rất đa dạng: đi từ mẩn ngứa, nổi mày đay đến sốt cao, rét run,
khó thở và mức độ nặng nhất là sốc phản vệ. Các phản ứng dị ứng nhẹ và trung
bình như mẩn ngứa, nổi mày đay, sốt, co thắt khí phế quản thường hết nhanh khi
cho bệnh nhân uống các thuốc kháng histamin, chống viêm non steroid đồng thời
với tạm ngừng truyền máu hoặc giảm tốc độ truyền máu. Truyền máu chỉ nên tiếp
tục khi bệnh nhân đã hết các triệu chứng.
Khi bệnh nhân có phản ứng dị ứng nặng như sốc phản vệ đe dọa đến tính
mạng thì cần xử trí cấp cứu như các tình trạng sốc phản vệ khác: ngừng truyền
máu, duy trì đường truyền tĩnh mạch bằng
dung dịch NaCl 0,9%, thở ôxy, tiêm hoặc truyền tĩnh mạch adrenalin (tùy theo
tình trạng tim mạch, hô hấp của bệnh nhân) kết hợp với hydrocortisol, kháng
histamin…Đối với các bệnh nhân có phản ứng sốc phản vệ với truyền máu mà vẫn có
chỉ định truyền máu thì trong các lần truyền máu sau nên truyền cho bệnh nhân
khối hồng cầu cầu rửa.
4. Nhiễm khuẩn
Nguyên nhân thường do truyền cho bệnh nhân các chế phẩm
bị nhiễm khuẩn trong quá trình thu gom, sản xuất và lưu trữ các chế máu. Nhóm
vi khuẩn Gram âm như Pseudomonas, Yersinia, Enterobacter… là nhóm vi khuẩn hay
gặp nhất là đối với các chế phẩm được bảo quản lạnh. Khối TC, mặc dù được bảo
quản trong điều kiện nhiệt độ phòng cũng vẫn có thể bị nhiễm khuẩn và có trường
hợp đã gây ra sốc nhiễm khuẩn do các vi khuẩn như Salmonella, Staphylococcus.
Bệnh nhân, khi được truyền các chế phẩm bị nhiễm khuẩn,
có các biểu hiện lâm sàng đi từ nhẹ đến nặng như : sốt, rét run, mẩn đỏ da ,
ngứa, đau bụng kiểu co thắt, đau cơ, suy thận, đông máu rải rác trong lòng
mạch, sốc nhiễm khuẩn. Rất khó phân biệt được biểu hiện lâm sàng của tình trạng
nhiễm khuẩn với các phản ứng tan máu hoặc không tan máu do truyền máu. Tuy
nhiên, theo kinh nghiệm, tình trạng lâm sàng của nhiễm khuẩn do truyền máu
thường nặng hơn, xảy ra muộn hơn khi so sánh với phản ứng sốt không tan máu do
truyền máu; không có biểu hiện đái huyết sắc tố hoặc tan máu trong lòng mạch
như phản ứng tan máu do truyền máu. Một
số tác giả đề nghị so sánh màu sắc của túi máu và màu sắc của ống máu đi kèm
túi máu để có thể phát hiện sớm tình trạng túi máu bị nhiễm khuẩn. Khi nghĩ đến
nhiễm khuẩn do truyền máu, nếu tình trạng lâm sàng bệnh nhân nhẹ hoặc trung
bình, có thể xử trí bằng ngừng truyền máu, cấy máu bệnh nhân, cấy túi máu và
dây truyền máu để tìm vi khuẩn, sử dụng kháng sinh tĩnh mạch phối hợp kết hợp
với hydrocortisol. Nếu bệnh nhân có các dấu hiệu lâm sàng của sốc nhiễm khuẩn
thì ngoài các biện pháp như trên cần cấp cứu bệnh nhân như một sốc nhiễm khuẩn.
5. Tổn thương phổi cấp
do truyền máu (TRALI)
Nguyên nhân của phản ứng này thường do các kháng thể có
trong huyết tương của các chế phẩm được truyền chống lại bạch cầu của bệnh
nhân. TRALI thường xảy ra trong khoảng 4 giờ sau khi bắt đầu truyền máu. Bệnh
nhân thường có các triệu chứng lâm sàng như phù phổi cấp(vì vậy TRALI còn được
gọi là phù phổi cấp không do tim mạch): sốt, rét, tím tái, khó thở, HA tụt,
mạch nhanh, phổi có các ran ẩm nhỏ hạt hai đấy phổi… Xét nghiệm khí máu cho
thấy SaO2 giảm. X quang phổi : có những nốt mờ rải rác hai đáy phổi. Xử trí:
ngừng truyền máu và điều trị như một trường hợp phù phổi cấp tuy nhiên trong
trường hợp này các thuốc lợi tiểu không có tác dụng.
6. Truyền máu khối
lượng lớn
Truyền
máu khối lượng lớn được định nghĩa là truyền cho bệnh một thể tích máu bằng
hoặc lớn hơn thể tích máu toàn thể của bệnh nhân trong thời gian 24 giờ. Thường
hay gặp trong trường hợp cấp cứu cho các bệnh nhân bị mất máu cấp do chấn
thương, phẫu thuật hoặc sản khoa. Các biến chứng do truyền máu khối lượng lớn
là:
§ Nhiễm toan chuyển hoá
§ Tăng kali máu
§ Nhiễm độc citrate và giảm
canxi máu
§ Giảm nặng các yếu tố đông
máu, sợi huyết và tiểu cầu
§ Đông máu rải rác trong
lòng mạch
§ Hạ thân nhiệt
Khi bắt buộc truyền máu
khối lượng lớn, cần theo dõi chặt chẽ tình trạng lâm sàng của bệnh nhân cũng
như các xét nghiệm có liên quan đến các biến chứng trên để có thể xử trí kịp
thời. Tùy theo từng loại biến chứng mà có biện pháp xử trí thích hợp.
B. Các phản ứng truyền máu
mang tính chất cấp tính hay sớm
1. Các bệnh nhiễm trùng
truyền qua đường truyền máu
Người cho máu, cũng như
bất kỳ một người bình thường nào khác, có thể mang một tác nhân nhiễm trùng,
đôi khi có thể trong một thời gian rất dài mà không hề có bất kỳ biểu hiện lâm
sàng nào. Các quy trình thăm khám cũng như xét nghiệm sàng lọc người cho máu
cũng như túi máu không thể đảm bảo 100% sàng lọc hết người cho mang tác nhân
nhiễm trùng. Các bệnh nhiễm trùng có thể lây truyền qua đường truyền máu:
·
HIV1 và HIV2
·
HTLV-I và HTLV-II
·
Vi-rút viêm gan B và C
·
Giang mai
·
Sốt rét
·
CMV
Và một số các bệnh hiếm gặp khác như:
·
Parvovirus B19
·
Brucellose
·
Vi-rút Epstein-Barr
·
Toxoplasmose
·
Bệnh Creutzfeldt-Jakob (CJD)
Biện pháp phòng ngừa chủ
yếu vẫn là cần thăm khám kỹ người cho máu, thực hiện nghiêm túc cẩn thận các xét nghiệm sàng lọc HIV, HBV,
HCV, giang mai, sốt rét cho người cho máu cũng như túi máu. Một số các biện
pháp khác như: lưu trữ túi máu ở nhiệt độ 2ºC - 6ºC giảm nguy cơ nhiễm khuẩn
các vi khuẩn không chịu nhiệt độ thấp, sử dụng các biện pháp bất hoạt vi-rút
như nhiệt độ, tia xạ, các chất tẩy rửa hoá học, truyền các chế phẩm máu nghèo
BC hạn chế lây truyền CMV....
2. Phản ứng tan máu
muộn do truyền máu
Thường xảy ra ở những bệnh nhân đã được truyền máu nhiều
lần hoặc ở những phụ nữ có thai là những người đã qua quá trình mẫn cảm với
hồng cầu lạ. Khi bệnh nhân được truyền
HC đã được mẫn cảm, quá trình đáp ứng miễn dịch sẽ xẩy ra, lượng kháng thể
kháng HC tăng lên nhanh chóng và sau vài ngày HC được truyền vào sẽ bị phá hủy
gây ra tình trạng tan máu muộn do truyền máu.
Các triệu chứng lâm sàng của tan máu muộn thường xuất
hiện vào khoảng ngày thứ 5 - 10 sau truyền máu : sốt, vàng da, thiếu máu, đái
đỏ. Đôi khi bệnh nhân có các dấu hiệu của tan máu nặng như suy thận, sốc hoặc
đông máu rải rác trong lòng mạch.T Thường tình trạng tan máu muộn không đòi hỏi
xử trí gì đặc biệt ngoại trừ trường hợp bệnh nhân có các biểu hiện lâm sàng của
tan máu nặng. Trong những trường hợp này chúng ta phải xử trí như một trường
hợp tan máu cấp. Tuy nhiên, để tránh xẩy ra tình trạng tan máu muộn do truyền
máu, cần tiến hành làm xét nghiệm Coombs trực tiếp, tìm kháng thể bất thường,
lựa chọn khối hồng cầu phù hợp để truyền ở những bệnh nhân được truyền máu
nhiều lần và phụ nữ có thai...
Phụ
lục 1: CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ MỘT SỐ PHẢN ỨNG TRUYỀN MÁU CẤP
(
Theo Tổ chức Y tế Thế giới - WHO)
Mức
độ
|
Dấu
hiệu sớm
|
Triệu
chứng LS
|
Nguyên
nhân
|
Xử
trí
|
Trung bình
|
Phản ứng da
tại chỗ:
- Mày đay
- Mẩn đỏ
|
- Ngứa
|
Tăng nhậy cảm
|
- Giảm tốc độ
truyền máu
- Thuốc kháng
histamin
- Sau 30 phút,
nếu tình trạng LS không cải thiện => xử trí theo mức độ trung bình nặng
|
Trung bình -
Nặng
|
- Cơn bốc hoả
- Mày đay
- Ngứa
- Rét run
- Sốt
- Bồn chồn
- Mạch nhanh
|
- Lo lắng
- Ngứa
- Hồi hộp,
đánh trống ngực
- Khó thở nhẹ
- Đau đầu
|
- Tăng nhậy
cảm
- Phản ứng
truyền máu sốt không tan máu do: Kháng thể kháng BC, TC
- Nhiễm khuẩn
|
- Ngừng truyền
máu. Đặt và duy trì đường truyền TM bằng dung dịch NaCl 0,9%
- Mời BS trực
và đơn vị phát máu ngay lập tức
- Bàn giao
toàn bộ túi máu, dây truyền máu cho đv phát máu; Lấy máu và nước tiểu để làm
XN
- Tiêm truyền
corticosteroid và các thuốc giãn phế quản nếu có các biểu hiện của sốc phản
vệ như co thắt khí phế quản, thở khò khè...
- Nếu LS cải
thiện và BN vẫn có chỉ định truyền máu, có thể bắt đầu truyền máu trở lại với
đv máu khác
- XN lại máu
và nước tiểu sau 24h để xác định tình trạng tan máu
- Sau 15 phút,
nếu tình trạng LS không cải thiện => xử trí theo mức độ nặng
|
Nặng
|
- Rét run
- Sốt
- Vật vã
- Hạ HA
- Mạch nhanh
- Đái đỏ
- Xuất huyết
|
- Lo lắng,
kích thích
- Đau ngực
- Đau xung
quanh điểm đặt kim tiêm truyền
- Đau lưng
- Đau đầu
- Khó thở, thở
nhanh nông
|
- Tan máu
trong lòng mạch cấp
- Nhiễm khuẩn
huyết và sôc NK
- Quá tải tuần
hoàn
- Sốc phản vệ
|
- Ngừng truyền
máu. Đặt và duy trì đường truyền TM bằng dung dịch NaCl 0,9% đẻ nâng huyết áp
- Đảm bảo
thông thoáng đường thở và cho thở ôxy
- Tiêm TM chậm
adrenaline 0,01mg/kg. Nếu HA tiếp tục hạ, chỉ định truyền dopamin hoặc
adrenalin...
- Tiêm truyền
corticosteroid và các thuốc giãn phế quản nếu có các biểu hiện của sốc phản
vệ như co thắt khí phế quản, thở khò khè...
- Chỉ định
thuốc lợi tiểu TM
- Mời BS trực
và đơn vị phát máu ngay lập tức
- Bàn giao
toàn bộ túi máu, dây truyền máu cho đv phát máu; Lấy máu và nước tiểu để làm
XN
- Bắt đầu theo
dõi lượng dịch vào và ra để đảm bảo cân bằng nước và điện giải
- Nếu có triệu
chứng xuất huyết và XN có DIC, truyền thêm TC, HTT hoặc tủa VIII tùy từng
trường hợp
- Khi nghi ngờ
sốc do nhiễm khuẩn và không thấy dấu hiệu của tan máu, cần bắt đầu ngay KS
phối hợp, phổ rộng TM
|
PHỤ LỤC 2: KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC PHẢN ỨNG TRUYỀN
MÁU CẤP
(Theo
Tổ chức Y tế Thế giới)
1. Thông báo ngay lập tức (trừ trường
hợp phản ứng nhẹ và trung bình)cho bác sĩ thường trực và cho đơn vị phát máu.
2. Ghi lại những thông tin sau vào hồ
sơ bệnh nhân :
-
Dạng phản ứng truyền máu
-
Thời gian xuất hiện phản ứng truyền máu
-
Các thông tin về túi máu
3. Lấy máu để làm các xét nghiệm sau:
-
Công thức máu
-
Đông máu cơ bản
-
Coombs trực tiếp
-
Urê và crêatinine
-
Điện giải đồ
-
Cấy máu
4. Lấy nước tiểu để xét nghiệm
hemoglobin niệu
5. Hoàn thành biên bản về phản ứng
truyền máu
6. Tiếp tục kiểm tra lại các xét
nghiệm trên sau 12h và 24h
No comments:
Post a Comment