NHẮC LẠI SINH LÝ
Khi nồng
độ glucose máu tăng cao hơn mức bình thường trong một khoảng thời gian đủ dài,
glucose sẽ phản ứng với các protein mà không cần sự xúc tác của enzym (phản ứng
glycosyl hóa protein hay còn gọi là phản ứng Amadori) tạo thành các sản phẩm
Amadori. (Khi phản
ứng xảy ra trong hồng cầu, glucose kết hợp với hemoglobin tạo thành hemoglobin
bị glycosyl hóa. Như vậy, hemoglobin bị glycosyl hóa (hémoglobine glycosylée)
chính là hemoglobin của các hồng cầu bị bão hòa với glucose dưới dạng glyco-
hemoglobin. Tình trạng bão hòa này được thể hiện trong suốt 120 ngày của đời
sống hồng cầu.
Bằng cách định lượng nồng độ hemoglobin bị glycosyl
hóa (glycosylated
hemoglobin), người thầy thuốc có thể nhận định được nồng độ
glucose máu trung bình trong vòng 2-3 tháng trước đó của BN. Điều này
cung cấp các thông tin quý giá để theo dõi các BN bị ĐTĐ là đối tượng có nồng
độ glucose máu. thay đổi quá nhiều giữa các ngày và giúp theo dõi mức độ kiểm
soát lâu dài bệnh ĐTĐ.
Khi nhận
định kết quả XN nồng độ hemoglobin bị glycosỵl hóa, điều quan trọng cần biết là
định lượng được thành phần nào của hemoglobin bị glycosyl hóa. Một số phòng XN
báo cáo hemoglobin bị glycosyl hóa bao gồm tổng các Hb (tức là gồm cả Hb A1a, A1b và A1c), một số
phòng XN khác chỉ ghi nhận nồng độ HbA1C như là
thành phần hemoglobin được glycosyl hóa (giá trị này có thể thấp hơn 2-4% so
với giá trị được báo cáo đối với tổng các hemoglobin được bão hòa glucose). HbA1C là một phân nhóm của HbA , valin có chuỗi N tận (N-terminal
Val) của phân tử hemoglobin này sẽ phản ứng với glucose thông
qua phản ứng glycosyl hóa không cần enzym xúc tác
và không thuận nghịch để tạo nên sản phẩm amadori gọi là HbA1C bị glycosyl hóa (hay HbA1C).
Mối tương
quan giữa nồng độ HbAlC và nồng độ glucose huyết tương được thể hiện bằng tăng
thêm 1% giá trị nồng độ HbA1C tương ứng
với nồng độ glucose huyết tương trung bình tăng thêm 35 mg/dL. Vì vậy:
- 4% HbA1C = nồng độ
glucose huyết tương trung bình là 65 mg/dL
- 5% HbA1C = nồng độ
glucose huyết tương trung bình là 100 mg/dL
- 6% HbA1C = nồng độ glucose huyết tương trung bình
là 135 mg/dL
- 7% HbA1C = nồng độ
glucose huyết tương trung bình là 170 mg/dL
- 8% HbA1C = nồng độ
glucose huyết tương trung bình là 205 mg/dL
- 9% HbA1C = nồng độ glucose huyết tương trung bình
là 240 mg/dL
- 10% HbA1C = nồng độ glucose huyết tương trung bình
là 275 mg/dL
- 11% HbA1C = nồng độ glucose huyết tương trung bình
là 310 mg/dL
- 12% HbA1C = nồng độ glucose huyết tương trung bình
là 345 mg/dL
MỤC ĐÍCH VÀ CHỈ ĐỊNH XÉT NGHIỆM
Để theo dõi hiệu quả điểu trị và mức độ kiểm soát nồng độ
glucose huyết ở BN bị ĐTĐ.
CÁCH LẤY
BỆNH PHẨM
XN được thực hiện trên hồng cầu, lấy máu và chống đông bằng EDTA. Không nhất thiết yêu cầu bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi
lấy máu.
GIÁ TRỊ BÌNH THƯỜNG
Giá trị bình
thường có thể thay đổi tùy theo phòng xét nghiệm. Kết quả được trả lời bằng
% nồng độ hemoglobsn bị glycosyl hóa so với nồng độ hemoglobin toàn phần:
- HbA1
toàn phần bị glycosyl hóa: 6 -10%
- HbA1a bị
glycosyl hóa: 0,3 - 0,5%
- HbAlb bị
glycosyl hóa: 0,5 - 0,9%
- HbA1c bị glycosyl hóa:
+ Người lớn
không bị ĐTĐ: 2,2 - 5%
+ Người lớn
bị ĐTĐ: < 7% (Theo hướng dẫn của Hiệp hội ĐTĐ Mỹ [ADA])
TĂNG NỒNG ĐỘ
HEMOGLOBIN BỊ GLYCOSYL HÓA
Các nguyên nhân chính thường gặp
là:
-
Nghiện rượu.
-
Tăng nồng độ glucose máu.
-
Ngộ độc chì.
-
Bệnh ĐTĐ mới được chẩn
đoán.
-
Bệnh ĐTĐ được kiểm soát
kém.
GIẢM
NỒNG ĐỘ HEMOGLOBIN BỊ GLYCOSYL
HÓA
Các
nguyên nhâm chính
thường gặp là:
-
Mất máu mạn tính.
-
Suy thận mạn.
-
Thiếu máu tan máu.
-
Có thai
-
Thiếu máu hồng cầu hình liềm (sickle cell
artemia).
-
Sau cắt lách.
-
Thiếu máu vùng biển hay bệnh
thalassemia.
CÁC YẾU TỐ GÓP PHẦN LÀM THAY ĐỔI KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM
- Giảm thời gian sống trung bình của hồng cẩu có thể là
nguyên nhân gây ước tính thấp hơn giá trị thực nồng
độ hemoglobin bị glycosyl hóa (Vd: khi BN bị thiếu máu tan máu, nhiễm thiết huyết
tố được điều trị bằng trích máu)
- Có các hemoglobin bất thường cũng có thể là nguyên nhân gây sai lạc kết quả.
- Nồng độ hemoglobin bị
glycosyl hóa rất thường bị ước tính cao hơn giá trị thực khi có tình trạng suy
thận.
LỢI ÍCH CỦA XÉT
NGHIỆM ĐỊNH LƯỢNG HEMOGLOBIN A1C
- XN khồng thể thiếu trong quy
trình theo dõi và chăm sóc lâu dài các BN ĐTĐ, nhất là các BN ĐTĐ không ổn định.
- XN này không bị ảnh hưởng bởi thời gian lấy máu XN, loại
thức ăn mà bệnh nhân ăn, tình trạng gắng sức, stress và bệnh nhân có dùng hay
không dùng thuốc điều trị bệnh ĐTĐ trước đó.
- XN giúp
theo dõi mức độ kiểm soát lâu dài bệnh ĐTĐ: Bằng cách định lượng nồng độ
hemogiobin bị glycosyl hóa (HbA1), người thầy thuốc có thể nhận định được nồng
độ glucose máu trung bình trong vòng 2-3 tháng trước đó của BN. Điều này cung cấp
các thông tin quý giá để theo dõi các BN bị ĐTĐ có nồng độ glucose máu thay đổi
quá nhiều giữa các ngày. XN nồng độ glucose máu lúc đói là một
thông số không ổn định do nó có thể bị thay đổi tùy theo mức độ tuân thủ với
phác đổ điều trị gần đây của BN, định lượng nồng độ HbA1 được coi như một chỉ số
cộng gộp các giá trị nồng độ glucose máu trong vòng vài tháng trở lại đây của BN.
- XN định lượng nồng độ HbA1c nên được làm với tần suất:
+ ít nhất
2 lần/năm ở các BN là đối tượng đáp ứng được đích điều trị và kiểm soát ổn định
nồng độ glucose máu.
+ Mỗi 3
tháng/lẩn ở các BN là đối tượng có thay đổi trong phác đồ điểu trị và/hoặc
không đáp ứng được đích điều trị.
+ Khi cần để hỗ trợ cho quyết định thay đổi phác đồ điều trị cho
bệnh nhân.
CÁC
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH LÂM SÀNG DỰA TRÊN Y HỌC BẰNG CHỨNG
1. Hiện tại không khuyên cáo sử dụng XN định lượng HbA1c để chẩn
đoán ĐTĐ do không đủ độ nhạy và độ đặc hiệu.
2. Kiểm soát glucose máu dựa trên các kết
quả nghiên cứu cho thấy hạ thấp nồng độ HbA1c sẽ giúp làm giảm các biến chứng của
ĐTĐ. Theo Hội Đái tháo đường Mỹ (ADA), đích chung đối với các BN bị ĐTĐ là duy
trì được một nồng dộ HbA1C < 7%. Đích mong muốn đối với các đối tượng chuyên biệt là duy
trì được nồng dộ HbA1C càng ngần giá trị
bình thường càng tốt (6%) mà không gây hạ glucose máu đáng kể cho bệnh nhân. Tuy
vậy đích điều trị này có thể không thích hợp đối với BN có tiền sử hạ đường huyết
nặng, BN có thời gian sống sót dự kiến ngắn, trẻ quá nhỏ tuổi hay người già và
các đối tượng có bệnh lý nặng phối hợp.
CÁC
CẢNH BÁO LÂM SÀNG
- Mục đích kiểm soát nồng độ
glucose máu cần đạt thay đổi tùy theo đối tượng bệnh nhân. Các đích kiểm soát nồng
đô glucose máu càng nghiêm ngặt (VD: duy trì nồng độ HbA1C <6%) sẽ giúp làm
giảm các biến chứng của bệnh đái tháo đường, song lại làm tăng nguy cơ hạ
glucose máu. Trẻ em, phụ nữ có thai, người già và các đối tượng có tiền sử bị hạ
glucose máu nặng và thường xảy ra cần cân nhắc cẩn thận đích kiểm soát nồng độ
glucose máu cần đạt.
- Nếu không thể đạt được các đích
điều trị mặc dù đã đạt được đích kiểm soát nồng độ glucose máu trước bữa ăn, có
thể cần chú ý hơn nữa đánh giá nồng độ glucose máu sau bữa ăn.
- Các bệnh nhân ĐTĐ cần được hướng
dẫn cách theo dõi nồng độ glucose máu tại nhà, ghi các kết quả đó và báo cáo lại
kết quả cho bác sĩ điều trị trong các lần khám định kỳ.
No comments:
Post a Comment